Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33346532
Tuần tin khoa học 388 (14-20/7/2014)
Chủ nhật, 13-07-2014 | 21:26:20

Gen GmPIP1;6 biểu hiện giúp đậu nành chống chịu mặn

 

Aquaporins, bao gồm lộ trình vận chuyển nước xuyên qua màng plasma ở mô rễ và mô lá, được người ta đề nghị xem xét nó như một chức năng chủ yếu trong tăng trưởng của thực vật do ảnh hưởng của nó giúp rễ hấp thu nước và trao đổi khí của lá. Hiện nay, một nhóm các nhà khoa học thuộc Đại Học Zhejiang, Trung Quốc đã cho biểu hiện thành công aquaporin GmPIP1;6 đậu nành  để đánh giá chức năng của nó trong điều hòa tăng trưởng và khả năng chống chịu mặn của đậu nành. GmPIP1;6 được tìm thấy có khả năng biểu hiện mạnh mẽ tại rễ cũng như ơ các mô sinh dục. Nghiệm thức xử lý 100 mM NaCl cho kết quả giảm sự thể hiện này trong giai đoạn khởi đầu. Tuy nhiên, ba ngày sau đó, sự thể hiện của nó tăng lên trong mô rễ và mô lá. Ảnh hưởng của sự kiện biểu hiện mạnh mẽ ấy của GmPIP1;6 trong đậu nành được giám định trong điều kiện bình thường và điều kiện mặn. Tăng trưởng được thúc đẩy mạnh hơn trong các dòng đậu nành có GmPIP1;6 so với dòng nguyên thủy trong điều kiện bị stress do mặn. Cây biểu hiện mạnh mẽ GmPIP1;6 duy trì khả năng vận chuyển nước của rễ (root hydraulic conductance: Lo) trong kiện kiện mặn so với dòng nguyên thủy có Lo giảm. Các dòng transgenic tăng trưởng trên đồng ruộng có năng suất cao nhờ kích thước hạt đậu tăng lên. Như vậy GmPIP1;6 có thể là một aquaporin đa chức năng trong quá trình vận chuyển nước của rễ, sự quang hợp và sự vào chắc của hạt. Nó sẽ là một gen vô cùng sống động trong cải thiện giống đậu nành.

Xem: http://www.biomedcentral.com/content/pdf/1471-2229-14-181.pdf.

 

Chủng nấm vào đất làm gia tăng khả năng hấp thu Zn của bắp trên đồng ruộng

 

Khả năng hấp thu kẽm (Zn) để hạt bắp giàu Zn rất thấp nên thường gây ra bệnh khiếm dưỡng. Do đó, một chiến lược sinh học đã và đang được khảo sát bởi các nhà khoa học thuộc Đại Học Nông Nghiệp Tamil Nadu. Họ nhắm đến mục đích giải quyết các vấn đề bằng cách sử dụng vi nấm mycorrhizal có tên ruộng bắp. Muốn đánh giá hiệu quả chủng vi nấm này, có 3 nghiệm thức phân bón Zn và hai nghiệm thức phân lân (P) được bón trên hai dòng bắp; một với nấm arbuscular mycorrhizal tên khoa học là Glomus intraradices (ký hiệu AMF+) và một không có vi nấm arbuscular mycorrhizal ký hiệu (AMF-). Cây có AMF+ biểu hiện chiều dài rễ tốt hơn và sinh khối rễ lớn, diện tích lá và hàm lượng diệp lục tăng trong nghiệm thức có hoặc không có bón phân P, hoặc Zn. Phản ứng của việc chủng AMF được thấy cao hơn ở nghiệm thức bón Zn thấp. Hạt bắp của cây có chủng AMF+ có hàm lượng kẽm cao và hàm lượng tryptophan cao so với cây không chủng (AMF-). Cây có hàm lượng Zn hấp thu từ đất có tương quan thuận khá ý nghĩa đối với hàm lượng Zn trong rễ, thân và hạt.

Xem: http://www.cropj.com/subramanian_8_5_2014_655_665.pdf.

(Hình: triệu chứng thiếu kẽm trên lá của bắp)

 

 Gen OsPTR6 trong chức năng vận chuyển của cây lúa có khả năng làm gia tăng mức độ tăng trưởng

 

 Nhằm mục tiêu gia tăng hiệu quả hấp thu phân đạm (NUE: nitrogen use efficiency) của cây  lúa, các nhà khoa học chuyển sự chú ý của họ sang rice PTR/NRT1 transporters, chúng là những phân tử vô cùng quan trọng cho tăng trưởng và phát triển của cây lúa. OsPTR6, một phân tử transporter PTR/NRT1, được người ta cho biểu hiện thành công trên giống lúa Nhật Nipponbare. Ba dòng transgenic, có tên là OE1, OE5OE6, được tạo ra và cho khảo sát với các thí nghiệm về tăng trưởng với ba nghiệm thức phân N khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu ấy, do các nhà khoa học thuộc ĐH Nông Nghiệp Nanjing, Trung Quốc, chiều cao cây và sinh khối của những dòng transgenic đều tăng, sự tích tụ N và hoạt tính của glutamine synthetase (GS) cũng tăng. Biểu hiện mạnh mẽ của OsPTR6 còn làm tăng sự thể hiện của các gen OsATM1. Tuy nhiên, NUE giảm ở nghiệm thức có bón đạm cao. Các số liệu này cho thấy sự biểu hiện thành công gen OsPTR6 có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng cây lúa làm tăng sự thể hiện của ammonium transporter và hoạt tính của glutamine synthetase, tuy nhiên, nó cũng giảm hiệu quả sử dụng đạm trong điều kiện bón nhiều ammonium.

Xem http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0168945214001150.

 

Sự khám phá ra gen có thể giúp cây rừng tăng cường chống chịu stress

 

Các nhà khoa học thuộc ĐH Oregon State và ĐH Michigan Technological, Hoa Kỳ, đã phát hiện ra chức năng của một gen kiểm soát đượcsự báo thức của cây sau khi ngủ đông (winter dormancy). Phát hiện này vô cùng sống động về khả năng của cây đa niên trước những thay đổi trong môi trường do biến đổi khí hậu. Nghiên cứu như vậy đã được in ấn trên PNAS số mới nhất (Proceedings of the National Academy of Sciences). Xem

http://oregonstate.edu/ua/ncs/archives/2014/jun/discovery-bud-break-gene-could-lead-trees-adapted-changing-climate/.

 

 

 

 

 

 

Ruồi đục quả biểu hiện gen đáp ứng với sự thông tin của loài người

 

Các nhà khoa học thuộc Đại Học Missouri đã khám phá ra một gen của ruồi đục quả rất quan trọng trong nghiên cứu nguồn gốc của ngôn ngữ loài người. Năm 2007, họ Đã tìm thấy một gentrong geome ruồi đục quả (fruit fly) rất giống với gen của người (human version) - gen Forkhead Bo P (FoxP) và theo những kết quả nghiên cứu gần đây nhất của họ gen này có vai trò quan trọng cho khả năng học tập. Ruồi đục quả có gen FoxP bị tổn thương sẽ không hoàn thành nhiệm vụ của nó. Ruồi đục quả có gen không bị tổn thương làm việc rất tốt và học cách di chuyển của chúng. Khi việc học như vậy bị khiếm khuyết, ruồi trở nên lừ đừ giống như bệnh nhân có gen FoxP đột biến, lúc đó, thông tin bị biến đổi lệch lạc. Một thay đổi trong cấu trúc của não ruồi cho thấy khả năng học hỏi của chúng bị lệ thuộc vào chức năng của gen này để chúng phát triển một cách bình thường. Theo nhóm tác giả ấy, một trong những nguyên nhân chính của ngôn ngữ ra đời khoảng 500 triệu năm qua của tổ tiên loài người, đó chính là khả năng cải cách học hỏi thông qua thực tiễn và sai lầm. "Sự phân định tính chất của ruồi là một dấu mốc đầu tiên để người ta hiểu rõ gen mà tổ tiên chúng ta đã học trên cơ sở nghiệm chứng và sai lầm (trial-and-error-based learning) rồi thông tin cho nhau trong loài," Troy Zars, một trong những tác giả công trình đã nói như vậy. "Phát hiện này giúp cho người ta hiểu thế nào là cơ sở di truyền của khiếm khuyết trong thông tin đưa chúng ta trờ thành loài người thông minh."


Xem http://munews.missouri.edu/news-releases/2014/0625-fruit-flies-help-scientists-uncover-genes-responsible-for-human-communication-mu-researcher-finds/.

 

Enzyme  Cocaine Esterase đột biến có thể chữa trị người lạm dụng Cocaine quá liều

 

Một enzyme bị đột biến trở thành vũ khí mới nhất chống lại sự lạm dụng cocain và người nghiện ma túy. Cocaine esterase là một enzyme có trong tự nhiên có chức năng phá vỡ hợp chất cocaine thành các hợp phần không có tác dụng gì. Tuy nhiên, enzyme này chỉ sống sót trong vòng 12 phút trong người có nhiệt độ bình thường, rồi hoàn trả lại trạng thái bất hoạt. Các nhà khoa học của ĐH Kentucky hiện đang tập trung nghiên cứu enzyme này. Họ có thể tạo ra những thể đột biến mạnh hơn của enzyme này, nó vẫn còn cho dù đã phá vỡ cocaine xong. Những đột biến ấy làm tăng độ sống sót của enzyme cocaine esterase gấp một nửa, duy trì cho đến 100 ngày trong thân nhiệt của một người bình thường, và phân giải cocaine đạt hiệu quả 150 %, 1.000 lần nhanh hơn khả năng tự vệ của con người. Họ đã thí nghiệm trên 5 con chuột tiêm một lần enzyme đột biến ấy. Theo sau là tiêm một liều cocaine có thể gây chết. Hai con chuột chết sau bốn ngày, hai con còn lại chết sau sáu ngày. Mặc dù tất cả chuột thí nghiệm đầu chết, nhưng đây là thời gian chúng còn sống lâu nhất sau khi bị chích quá liều.

Xem http://pubs.acs.org/doi/full/10.1021/cb500257s.

 

Thông Báo

 

ICABBBE 2014

 

Hội nghị quốc tế về Công nghệ sinh thái học, công nghệ sinh học nông nghiệp viết tắt là ICABBBE 2014 (International Conference on Agricultural, Biotechnology, Biological and Biosystem Engineering 2014) sẽ được tổ chức tại Jakarta, Indonesia vào ngày 12-13 tháng 12, 2014. Xem: http://icabbbe.weebly.com/.

Trở lại      In      Số lần xem: 1686

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD