Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  24
 Số lượt truy cập :  33349629
Tuần tin khoa học 422 (09-15/03/2015)
Thứ sáu, 06-03-2015 | 20:02:37

Giống lúa biến đổi gen biểu hiện suy giảm độ bạc bụng

 

Việc cung cấp không đủ lượng “photosynthates” (sản phẩm quang hợp của hạt gạo được xem như là một trong những nguyên nhân gây ra bạc bụng (chalkiness), làm cho phẩm chất hạt suy giảm. Tại Trung Quốc, các nhà khoa học thuộc ĐH Zhaoqing, đứng đầu là Yonghai Liu đã nghiên cứu enzyme L-galactono-1, 4-lactone dehydrogenase (L-GalLDH, EC1.3.2.3), đóng vai trò xúc tác ở giai đoạn cuối của sinh tổng hợp ascorbic acid (Asc) và ảnh hưởng của nó đối với độ bạc bụng. Họ thấy rằng sử biểu hiện mạnh mẽ L-GalLDH trong cây lúa transgenic, GO-2, chứa hàm lượng Asc trong lá lúa cao hơn cây lúa bình thường; làm giảm độ bạc bụng đáng kể. Phân tích sâu hơn cho thấy khi làm tăng mức độ Asc sẽ làm tổng hợp ra ribulose-1,5-bisphosphate (RuBP) cao hơn, mức độ protein carboxylase/oxygenase (Rubisco) trong GO-2 cao hơn, ngần ấy làm tăng mức độ quang hợp của cây lúa. Thúc đẩy sự tăng hàm lượng Asc sẽ ản hưởng đến bạc bụng của hạt lúa chuyển gen GO-2 thông qua chức năng quang hợp trong lá lúa ở giai đoạn phát triển chủ yếu liên quan đến sự vào chắc của hạt.

Xem Science Direct.

 

Hình 1. Độ bạc bụng của hạt gạo và hình thái học của tinh bột so sánh giữa giống lúa biến đổi gen GO-2 và giống nguyên thủy (WT).

(A) Độ bạc bụng của hạt gạo GO-2 và WT.

(B) Hạt gạo chà bóng của lúa WT (trái) và GO-2 (phải).

(C) Hình ảnh “scanning electron microscopy”  những phần nổi của giống WT (trái) và GO-2 (phải). Giá trị một gạch là 10 μm.

Số liệu trong hình (A) là giá trị trung bình ± SE của 50 lần nhắc lại, LSD 0,05.

 

GhNPR1 có vai trò quan trọng trong phản ứng tự vệ của cây hoa lay ơn

 

Lay ơn (Gladiolus hybridus) rất nhạy cảm với nhiều pathogens gây bệnh cây và rất cần được người ta hiểu biết cơ chế bảo vệ tự nhiên để phát triển một chiến lược bảo vệ cây trồng này. Gen NPR1 thuộc nhóm gen PR (NPR1: được viết tắt từ chữ non-expressor of pathogenesis-related gene 1) và yếu tố phiên mã TGA2  (bzip transcription factor TGA2) đã được người ta xác định để điều hòa salicylic acid (SA); theo hệ thống kích kháng SAR (SA-mediated systemic acquired resistance). Xionghui Zhong và Mingfang Yi thuộc ĐH Nông Nghiệp Trung Quốc đã nghiên cứu thể đồng dạng (homologs) của  NPR1TGA2 trong cây lay ơn, đó là GhNPR1GhTGA2, theo thứ tự. Sự thể hiện của GhNPR1 được tăng lên trong lá sau khi xử lý bằng salicylic acid, chứng minh rằng promoter của GhNPR1 trong cây lay ơn có thể bị kích hoạt bởi SA. Sự biểu hiện mạnh mẽ của GhNPR1 trong cây Arabidopsis khôi phục  được tính kháng đối với Pseudomonas syringae pv. tomato DC3000. Mặt khác, tháo tác làm câm gen GhNPR1 cho kết quả làm tăng cường tính nhiễm bệnh đối với Curvularia gladioli. Như vậy GhNPR1 có một vai trò quan trọng trong cơ chế kích kháng “SA-dependent systemic acquired resistance” của cây hóa lay ơn.

Xem Springer Link.

 

Gene của đậu phộng làm giảm bớt áp lực stress do mặn và khô hạn gây ra trên cây thuốc lá

 

Stress phi sinh học thường mang đến sự hình thành ROS (reactive oxygen species), nó gây ra tổn thương cho tế bào và ức chế quang hợp. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ROS bị đối kháng bởi các hệ thống “antioxidant”, với SOD (superoxide dismutase) là enzyme đầu tiên có chức năng giải độc (detoxification). Neera Bhalla Sarin thuộc ĐH Jahwarlal Nehru, Ấn Độ là trưởng một nhóm nghiên cứu phân lập gen AhCuZnSOD từ những dòng tế bào chống chịu mặn của cây đậu phọng (Arachis hypogaea). Vai trò của AhCuZnSOD trong việc làm nhẹ bớt stress phi sinh học đã được đánh giá thông qua sự biểu hiện mạnh mẽ của cây thuốc lá transgenic. Cây thốc lá biến đổi gen ấy đã đã cải thiện được tính chống chịu mặn và stress khô hạn, có thời gian sống sót dài hơn trong điều kiện thiếu nước và mặn; chúng cho thấy có một sự phục hồi sau khi tưới nước trở lại khá tốt. Sự biểu hiện mạnh mẽ của gen AhCuZnSOD có thể đóng vai trò quan trọng làm giảm sự tổn thương có tính chất “oxidative” bởi stress phi sinh học.

Xem  Springer Link.

 

Giải trình tự bộ genome của ruồi Hessian

 

Ruồi Hessian (Hessian fly) là một trong những loài côn trùng chính phá hại lúa mì. Nó làm cho cây lùn xuống với các vết ghẻ loét. Một nhóm các nhà khoa học từ 26 Viện đã tiến hành nghiên cứu trình tự của bộ gen con ruồi Hessian. Nó gợi cho chúng ta một ít thông tin về con ruồi gây triệu chứng “gall” này. Người ta xem xét làm thế nào ruồi Hessian tấn công và lấy lại tính kháng của nó đối với hệ thống phòng vệ của cây lúa mì, họ có thể xác định rằng ruồi Hessian có bộ gen khá lớn - hơn 1000 gen mã hóa các protein “effector”, tạo nên một họ gen lớn nhất được phát hiện trong genome côn trùng. Hơn nữa, những gen ấy có thể tiến hóa rất nhanh để sản sinh ra các effector proteins mà protein như vậy không được hệ thống phòng vệ cây phản ứng lại. Một vài effector proteins được tìm thấy giống với trường hợp tạo vết “gall” (ghẻ, loét) trên cây của vi khuẩn.

 

Hình: Nhà côn trùng học Jeffrey Stuart của ĐH Purdue

 

 

Xem Purdue University's website.

 

THÔNG BÁO

 

Đại hội Plant Genomics Châu Á

 

Đại Hội Plant Genomics Châu Á lần thứ Hai được tổ chức vào ngày 19-20, tháng Ba, 2015 tại Kuala Lumpur, Malaysia

Liên hệ nnoakes@globalengage.co.uk

Xem chi tiết http://www.globalengage.co.uk/plantgenomicsasia.html.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 922

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD