Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  64
 Số lượt truy cập :  34079873
Vai trò của sinh học tổng hợp trong việc biến khí tự nhiên thành nhiên liệu sạch
Thứ sáu, 14-02-2014 | 08:08:28

Sinh học gia tổng hợp Ramon Gonzalez đến từ Trường Đại học Rice đã nhìn thấy được tương lai, 1 tương lai gần – trong tương lai đó, người dân Mỹ có đủ nhiên liệu sạch từ khí tự nhiên để làm cho năng lượng quốc gia này không còn bị lệ thuộc.

 

Phó giáo sư Gonzales cùng đồng tác giả Robert Conrado đã mô tả chi tiết những rào cản mà Mỹ phải vượt qua thì mới có thể biến khí tự nhiên giàu metan mà họ đã sản xuất ra rất nhiều thành nhiên liệu vẫn lỏng ở nhiệt độ phòng – về cơ bản, loại nhiên liệu này tương đương xăng dầu giá rẻ và thân thiện môi trường.

“Khí tự nhiên là 1 trong những nguồn dồi dào nhất trên thế giới, nhưng cho đến nay Mỹ đã đầu tư rất ít cho nghiên cứu biến đổi sinh học khí tự nhiên”.

Mỹ sản xuất nhiều khí tự nhiên hơn bất kỳ quốc gia nào khác, nhưng việc biến khí tự nhiên thành nhiên lỏng mà không bỏ đi phần lớn năng lượng chứa trong nó là 1 việc làm tốn kém nhiều chi phí, Gonzalez cho biết. “Các công nghệ biến khí thành chất lỏng hiện nay chỉ có thể hỗ trợ những quá trình nhiều bước và phức tạp về mặt công nghệ, những quá trình này cần hoạt động ở quy mô lớn, điều này có nghĩa là phải đầu tư hàng tỷ đô la cho mỗi cơ sở sản xuất. Về mặt kinh tế thì những công nghệ này có thể đứng vững được bởi vì khí tự nhiên quá rẻ, nhưng lại không tốt xét về mặt hiệu quả năng lượng và khí thải”.

Trong khi việc biến đổi sinh học đem lại 1 giải pháp tiềm năng ở quy mô lớn thì việc thực hiện các công nghệ biến đổi sinh học hiện nay sẽ dẫn đến việc lãng phí phân nửa năng lượng này và 1/3 khí cacbon trong metan trong quá trình chuyển đổi sang 1 dạng nhiên liệu lỏng, và chính vì thế làm lãng phí 1 lượng cacbon khổng lồ. Và khi khí tự nhiên tăng giá thì nó sẽ không còn có thể đứng vững về mặt kinh tế nữa”, ông cho biết.

Mục tiêu của cuộc nghiên cứu là giải quyết cả 2 vấn đề bằng cách tận dụng năng lượng của khí tự nhiên có đầu vào năng lượng ít nhất. Gonzalez cho biết rằng chìa khoá chính là thiết kế những enzim “kích hoạt” hiệu quả các liên kết cacbon-hydro trong metan, đây là bước đầu tiên của quá trình biến đổi. Điều đó liên quan đến việc xử lý các tế bào vi khuẩn làm thay đổi các chất liệu ở cấp độ phân tử.

Tiếp theo, ông cho biết rằng các nghiên cứu gia sẽ cần 1 phương pháp hiệu quả để biến đổi khí metan trung gian đã được kích hoạt thành nhiên liệu lỏng phối hợp cùng sự phát triển các lò phản ứng sinh hoạt năng suất cao.

Gonzalez cùng nhóm nghiên cứu đã tạo ra 1 bản đồ chỉ đường để phát triển những công nghệ biến khí thành chất lỏng với hiệu quả năng lượng cao và ít khí thải cacbon. Ông cho biết rằng một chương trình thành công sẽ hỗ trợ các cơ sở biến đổi sinh học khí tự nhiên với chi phí vốn thấp và ở những quy mô nhỏ, điều này lần lượt sẽ cho phép sử dụng bất kỳ nguồn khí tự nhiên nào.

Ông cho biết rằng ông hy vọng có thể hoàn thành sứ mệnh của mình bằng cách thúc đẩy những tiến bộ có tính cách mạng ở cả khoa học cơ bản lẫn khoa học ứng dụng. “Chu trình phát triển 1 công nghệ chuyển đổi thực sự mới trong lĩnh vực năng lượng ở nơi đâu cũng cần 5-15 năm để phát triển. Tôi nói một cách lạc quan là 5 năm nhưng tôi cho rằng đến cuối thập kỷ này, những công nghệ giống như những công nghệ mà chúng tôi đang xúc tiến mới sẵn sàng”.

A.T - Dostdongnai, Theo Phys.org.

Trở lại      In      Số lần xem: 1016

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD