Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  14
 Số lượt truy cập :  33481351
‘Siêu vi khuẩn’ dọn sạch dầu tràn
Thứ bảy, 22-03-2014 | 06:18:57

Các nghiên cứu gia đã đạt được những kết quả đáng kinh ngạc bằng cách sử dụng khả năng của chính thiên nhiên để dọn sạch dầu sau các sự cố tràn dầu.

 

Các nghiên cứu gia Na Uy ở Trondheim đã đạt được những kết quả đáng kinh ngạc bằng cách sử dụng khả năng của chính thiên nhiên để dọn sạch dầu sau các sự cố tràn dầu.

 

Các khoa học gia biết rằng vi khuẩn biển có thể hỗ trợ trong việc dọn sạch dầu sau những sự cố tràn dầu. Điều đáng kinh ngạc là nếu chọn kiểu khuyến khích đúng thì chúng thậm chí có thể hiệu quả hơn.

 

Biện pháp sinh học là cách dọn sạch dầu tràn của thiên nhiên. Thực vật, vi khuẩn phân huỷ hoặc enzim được sử dụng để loại bỏ các chất gây ô nhiễm và khôi phục sự cân bằng của tự nhiên theo sau những sự cố ô nhiễm.

 

Hộp công cụ

 

Khi chúng ta dọn sạch dầu sau 1 sự cố tràn dầu có kích cỡ xác định, như dọc theo bờ biển của chúng ta chẳng hạn, chúng ta bắt đầu áp dụng các biện pháp cơ học bằng cách sử dụng thuổng và chổi cộng thêm hoá chất. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không tự dối mình được, thậm chí khi dọn sạch dầu thì bề mặt vẫn thường còn dầu được chôn sâu ở đáy cặn.

 

Netzer cho biết: “Phương pháp này có thể dọn sạch các vết dầu loang thậm chí kỹ lưỡng hơn và tiết kiệm chi phí hơn. Chúng tôi muốn xem nó hữu hiệu thế nào. Và chí ít là để thu thập các dữ liệu có thể được sử dụng để giúp ích cho việc ra quyết định ở những tình huống mà thiên nhiên cần thêm sự hỗ trợ đó”.

 

Vì thế các nghiên cứu gia đã thực hiện rất nhiều cuộc thí nghiệm trong phòng thí nghiệm hàng hải. Mục tiêu của họ là nghiên cứu cách thức các sinh vật cư trú bé xíu ở các đại dương có thể hỗ trợ chúng ta trong việc dọn dẹp các chất gây ô nhiễm như thế nào, như vi khuẩn và nhiều sinh vật khác, và liệu chúng có khả năng khôi phục sự cân bằng tự nhiên sau đó hay không, và cuối cùng là để xác định các nhân tố giới hạn liên quan đến quá trình này. Sau khi không thể có được bất kỳ phản hồi quan trọng nào từ các thí nghiệm ban đầu, họ đã thay đổi các thông số thí nghiệm và các kết quả thú vị đã xuất hiện.

 

Bắt chước thiên nhiên dọc bờ biển

 

Tại Brattørkaia ở Trondheim, các nghiên cứu gia đã thu thập 1 ‘thư viện dầu’ hỗn hợp, đây là thư viện họ sử dụng ở dạng nghiên cứu này. Các thuộc tính của những loại dầu này đã được đo lường và ghi chép một cách chính xác, và điều này cho phép các nghiên cứu gia chọn được loại dầu hoàn hảo cho thí nghiệm của mình.

 

“Loại dầu mà họ chọn được sản xuất ở số lượng lớn ở Na Uy, và vì thế rất lý tưởng cho việc bắt chước 1 viễn cảnh hiện thực liên quan đến sự tích tụ dầu ở 1 bờ biển của Na Uy”, Netzer giải thích. “Sau đó, chúng tôi cố gắng bắt chước những gì xảy ra trong tự nhiên khi dầu bện lại”.

 

16 thùng dầu chứa đầy cặn, cùng với hệ vi sinh vật, dầu và nước biển như trong tự nhiên. Các nghiên cứu gia còn bắt chước hoạt động của thuỷ triều bằng cách thay thế nước biển và vì thế đảm bảo rằng sẽ cung cấp đủ oxy và dưỡng chất. Điều gì xảy ra sau đó ở những thùng dầu này đã được ghi chép lại cẩn thận. Nhưng sau 1 tháng quan sát thì chỉ thấy một lượng nhỏ chất gây ô nhiễm được loại bỏ.

 

Các phân tích sinh học là nhạy nhất

 

Các phân tích hoá học và sinh học được thực hiện sau đó đã đem lại kết quả gần tương tự.

 

“Tuy nhiên, chúng tôi lưu ý rằng các phương pháp sinh học rất nhạy và đem lại cho chúng tôi rất nhiều thông tin. Những phương pháp này phân tích mật độ vi khuẩn, DNA của chúng và sự tiêu thụ oxy. Các phương pháp hoá học phải rất tiên tiến thì mới đạt được những ngưỡng phát hiện tương tự”, Netzer cho biết.

 

“Thậm chí các kết quả của những cuộc thí nghiệm vi khuẩn cũng đáng thất vọng”, ông giải thích. “Nhưng các kết quả sinh học này cho thấy rằng chúng tôi đang đi đúng hướng và điều này đem lại cho chúng tôi ý tưởng để giúp thiên nhiên một tay. Chúng tôi biết rằng những vi khuẩn này sẽ sinh sôi nảy nở - và chính vì thế công việc của chúng sẽ hiệu quả hơn nếu chúng được cung cấp thêm dưỡng chất. Trong thiên nhiên, vi khuẩn phát triển tốt nhất khi có hàm lượng photphat và nitơ cao”.

 

Vấn đề là hàm lượng những chất này trong thiên nhiên không đủ. Vì thế các nghiên cứu gia quyết định bổ sung cho chúng một ít.

 

Họ đã tăng nhiệt độ nước, giảm hàm lượng oxy và kéo dài thời gian thí nghiệm. Trạng thái thuỷ triều cũng được điều chỉnh để có được 12 tiếng đồng hồ ngắt quãng (thay vì 3 tiếng như trước đây) giữa những lúc đưa nước mới vào các thùng dầu.

 

Và điều này đã đem lại kết quả. Sau 1 tháng, các nghiên cứu gia đã có được câu trả lời rõ ràng.

 

Các phân tích cho thấy rằng những dưỡng chất bổ sung thêm này đã cho phép vi khuẩn hoạt động hiệu quả hơn trong việc phân huỷ dầu tràn. Đồng thời, việc tăng nhiệt độ, giảm hàm lượng oxy và điều chỉnh chu trình thuỷ triều đã không đem lại hiệu quả đáng kể nào.

 

“Chúng tôi cho rằng các dữ liệu thu được từ những thí nghiệm này sẽ có ý nghĩa quan trọng cho các công ty dầu”, Netzer cho biết. Nay, ông dự tính đưa 1 loại vũ khí mới vào cuộc chiến dọn dẹp dầu sau các sự cố tràn dầu.

 

“Chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ có thể tạo ra được những vỏ bao mà có thể tự gắn chúng vào đá dọc bờ biển. Những vỏ bao này sẽ đem lại điều kiện phát triển lý tưởng cho vi khuẩn bằng cách tiết ra dinh dưỡng khi cần thiết”.

 

A.T - Dostdongnai, theo Science Daily.

Trở lại      In      Số lần xem: 3746

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD