Đến nay 5 dòng TGMS mang gien WC với những đặc tính ưu việt: độ thuần cao, ngưỡng nhiệt độ chuyển đổi tính dục, khả năng nhận phấn ngoài cao và con lai có tiềm năng suất cao hơn hẳn giống đối chứng nên có thể đáp ứng được việc chọn tạo các tổ hợp lúa lai siêu cao sản ở Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp lai Prai’64S (có gien WC) và 7S (không có gien WC) với các giống lúa thuần, theo phương pháp thủ công, thu hạt F1, gieo và chọn cá thể bất dục trong quần thể phân li F2, chuyển vụ liên tục để làm thuần theo phương pháp chọn lọc cá thể. Các dòng TGMS chọn thuần đến thế hệ F10, F12 thì lai với hai dòng thử: IR36 (indica) và Daikoku (japonica) để xác định dòng mang gien WC, theo phương pháp của Ikehashi H. và Maruyama K.et al. (1994), đánh giá tỷ lệ đậu hạt của F1 đạt >70% là dòng mang gien WC. Thí nghiệm trên đồng ruộng được bố trí theo Phạm Chí Thành (1998).
Kết quả nghiên cứu cho thấy các dòng TGMS mới (D52, D59, D60, D64, D116), được chọn tạo tại Trung tâm Nghiên cứu Lúa lai, Viện Cây Lương thực và CTP có một số đặc điểm nông sinh học quý: có ngưỡng nhiệt độ chuyển đổi tính dục ở 240C và 250C, cây thấp (70,3-72,8cm), thời gian từ gieo đến trỗ từ 75-78 ngày, số lá/thân chính 13,2-14,2 lá, sô sboong 6,3-8,6 bông/khóm. Khi lai các dòng này với dòng thử thuộc loài phụ indica và japonica, con lai F1 đều có tỉ lệ đậu hạt cao (70-95%) nên các dòng này chắc chắn mang gien tương hợp rộng.
Con lai F1 giữa các dòng TGMS mới các giống lúa thuần thuộc loài phụ indica và japonica có TGST ngắn 121-135 ngày (vụ xuân), cây thấp 98-106cm, năng suất cao vượt hơn đối chứng Nhị ưu 838 từ 27-54% (vụ xuân 2008) và vượt hơn đối chứngD. ưu 527 từ 18,4-31,5% (vụ xuân 2011).
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí NN&PTNN kỳ 1, tháng 10/2012.
|