Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  66
 Số lượt truy cập :  34077833
Chất béo bão hòa không làm thay đổi chất lượng thịt heo
Thứ ba, 04-06-2013 | 01:22:42

Một nghiên cứu gần đây được công bố trên Tạp chí Khoa học Động vật cho thấy rằng, các nhà sản xuất có lẽ muốn điều chỉnh chế độ ăn của heo khi trộn thêm bã rượu khô (DDGS). Một số nhà sản xuất tin rằng, cho heo ăn chất béo bão hòa sẽ làm mất đi ảnh hưởng làm mềm mỡ của DDGS. Mỡ săn chắc hơn có nghĩa là thịt heo để được lâu hơn.

 

pork.jpg

 

Thêm mầm ngô, mỡ bò không làm thay đổi chất lượng thịt heo

 

Nhưng các nhà nghiên cứu từ Đại học Illinois phát hiện thấy rằng, thêm chất béo bão hòa trong chế độ ăn DDGS không tạo ra sự khác biệt nào trong chất lượng mỡ.

 

Các nhà nghiên cứu đã xây dựng sáu chế độ ăn bột ngô-đậu nành để kiểm tra ảnh hưởng của các phụ gia chất béo bão hòa đến chất lượng mỡ trong thịt lợn. 5 trong 6 chế độ ăn này đều chứa DDGS.

 

Theo các nhà nghiên cứu, thịt heo từ những con heo ăn DDGS có thời hạn sử dụng giảm xuống và khả năng bị hư hại do ôxy hoá tăng lên. Hư hại do oxy hóa ảnh hưởng đến kết cấu , màu sắc, độ ướt và hương vị tổng thể của sản phẩm thịt heo.

 

"Bã rượu khô có chứa các axit béo không bão hòa và những axit béo này tích lũy vào mỡ của heo", Hans-Henrik Stein, đồng tác giả của nghiên cứu và giáo sư về ngành khoa học động vật tại Đại học Illinois cho biết. "Từ quan điểm y tế, đó là một điều tốt, nhưng nó có thể là vấn đề khi sản xuất các sản phẩm thịt heo như thịt xông khói."

 

Theo Stein, tỷ lệ chất béo không bão hòa cao làm cho phần mỡ bụng của thịt heo quá mềm đến nỗi không thể thái lát để làm thịt xông khói. Để giải quyết vấn đề này, các nhà sản xuất đã cho thêm các chất béo bão hòa như mầm ngô, mỡ bò, dầu hạt cọ và glycerol trong khẩu phần ăn có chứa DDGS để làm cho mỡ heo săn chắc hơn.

 

Trong nghiên cứu này, mầm ngô, mỡ bò, dầu hạt cọ và glycerol, mỗi thứ được thêm vào từng chế độ ăn uống có chứa DDGS. Các nhà nghiên cứu sau đó so sánh các con heo ăn từng kiểu chế độ ăn này với các con heo ăn chế độ ăn DDGS nhưng không thêm chất béo bão hòa và các con heo đối chứng - ăn bột ngô-đậu nành nhưng không có DDGS.

 

Độ chắc của mỡ được kiểm tra bằng cách để lên phần thịt bụng một thanh kim loại với phần da úp xuống. Sau đó, khoảng cách giữa hai mặt bên được đo. Khoảng cách càng lớn nghĩa là độ chắc của miếng mỡ càng cao.

 

Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy rằng, những con heo đối chứng có khoảng cách đo được lớn hơn so với các con heo ăn các chế độ ăn khác. Không có sự khác biệt nào giữa những con heo được cho ăn 5 kiểu chế độ ăn có chứa DDGS.

 

Điều này khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc thêm chất béo bão hòa vào chế độ ăn có chứa DDGS không ảnh hưởng gì đến chất lượng mỡ của heo.

 

Giáo sư Stein cho rằng, các nhà sản xuất mà cho heo ăn với tỷ lệ DDGS cao nên giảm liều lượng trong 3 hoặc 4 tuần cuối trước khi thu hoạch để tránh làm mềm mỡ của heo.

 

Xem thêm tại http://www.eurekalert.org/pub_releases/2013-05/asoa-sfd052813.php

 

Thanh Vân - Dostdongnai, Theo Eurekalert.

Trở lại      In      Số lần xem: 1248

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD