Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33357961
Nghiên cứu tổng hợp và sử dụng một số chất có nguồn gốc tự nhiên làm tăng hiệu lực sinh học của thuốc trừ sâu vi sinh Bt
Thứ hai, 23-09-2013 | 12:42:58

Hiện nay do sự phát triển dân số cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh đất canh tác, nền nông nghiệp nước ta đang áp dụng các biện pháp thâm canh cao, sử dụng ngày càng nhiều phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có nguồn gốc hóa học nhằm tăng năng suất và chất lượng nông phẩm. Tuy nhiên, thâm canh nông nghiệp làm đất bị thoái hóa, tồn dư các chất độc hại trong đất ngày càng cao, dẫn đến phát sinh một số dịch hại không báo trước; đồng thời, do sâu bệnh kháng thuốc nhanh nên người nông dân thường tăng nồng độ sử dụng thuốc BVTV, dẫn đến dư lượng thuốc trong sản phẩm nông nghiệp ngày càng cao, gây mất an toàn cho người sử dụng, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.

 

Để giảm thiểu tác động xấu của thuốc BVTV đến môi trường và cộng đồng, xu hướng sử dụng các chế phẩm có nguồn gốc sinh học thay thế dần thuốc hóa học ngày càng phát triển. Trong đó, thuốc trừ sâu vi sinh Bt (Bacillus thuringiensis) hiện đang chiếm phần lớn thị trường thuốc trừ sâu sinh học ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

 

Chế phẩm sinh học Bt không gây ô nhiễm môi trường, an toàn với người và động vật có ích, không để lại dư lượng trong nông sản, nên được sử dụng rất nhiều đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp sạch. Tuy nhiên, sử dụng Bt có nhược điểm lớn nhất là tác động chậm; thuốc dễ bị phân hủy khi có tia cực tím của ánh sáng mặt trời và đặc biệt dễ gây hiện tượng kháng thuốc của côn trùng. Vì vậy, tác dụng của thuốc Bt không đem lại hiệu quả phòng trừ.

 

Nhằm mục đích giảm hiện tượng kháng thuốc và nâng cao hiệu quả sử dụng của thuốc trừ sâu Bt, trung tâm Hữu cơ - Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tổng hợp và sử dụng một số chất có nguồn gốc tự nhiên làm tăng hiệu lực sinh học của thuốc trừ sâu vi sinh Bt”.

 

Đề tài đã thu được những kết quả sau:

-       Đã lựa chọn được nguồn nguyên liệu thích hợp cho quá trình tổng hợp chất có tác dụng hiệp đồng cho thuốc trừ sâu sinh học Bt là dầu đào nhân Việt Nam với thành phần axit oleic 57,5% và axit linoleic 32,4%.

-        Đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân để tách hỗn hợp 2 axit trên từ dầu đào nhân và làm giàu chúng bằng phương pháp tạo phức với ure.

-         Đã khảo sát quá trình tổng hợp hỗn hợp muối kali oleat và kali linoleat để sử dụng làm chất synergist với thuốc trừ sâu Bt.

-         Trên cơ sở sản phẩm thu được, đã xây dựng công thức hỗn hợp synergist với thuốc trừ sâu Vi-Bt 16.000 UI/mg WP theo các tỷ lệ 1/1, 1,5, 2/1.

-      Sản phẩm hỗn hợp giữa chất synergist với thuốc trừ sâu Bt đã được thử nghiệm hiệu lực sinh học sơ bộ tại Viện Bảo vệ Thực vật trên đối tượng sâu khoang và sâu tơ. Kết quả cho thấy hiệu quả tăng tương đối.

 

Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nhận xét và kết quả ban đầu. Cần nghiên cứu, khảo sát tiếp để có kết luận chính xác.

 

Có thể tìm đọc toàn bộ Báo cáo KQNC Đề tài (số lưu trữ: 9016 - 2012) tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (http://db.vista.gov.vn).

N.K.L - NASATI.

Trở lại      In      Số lần xem: 1328

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD