Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  50
 Số lượt truy cập :  35073209
Can thiệp nitơ là chìa khóa để có hệ sinh thái khỏe mạnh
Thứ tư, 04-09-2024 | 08:07:19

Một nghiên cứu mới chỉ ra cách can thiệp nitơ có thể làm giảm ô nhiễm, cải thiện sức khỏe và hỗ trợ các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG). Sản xuất lương thực và năng lượng đã gây ra ô nhiễm nitơ đáng kể, gây hại cho chất lượng không khí và nước và gây rủi ro cho khí hậu và hệ sinh thái.

 

Khung mô hình tích hợp đánh giá các biện pháp can thiệp nitơ đầy tham vọng có thể làm giảm lượng khí thải amoniac và nitơ, từ đó cải thiện chất lượng không khí bằng cách giảm các hạt mịn và nồng độ ozone, đồng thời giảm lắng đọng nitơ, cuối cùng mang lại lợi ích cho môi trường và sức khỏe cộng đồng.


Chu trình nitơ của Trái đất là một trong những ranh giới hành tinh bị vượt quá nhiều nhất. Sản xuất nông nghiệp và đốt nhiên liệu hóa thạch giải phóng các chất ô nhiễm nitơ như amoniac (NH3), nitơ oxit (NOx) và nitơ oxit (N2O), góp phần gây ô nhiễm không khí và làm hỏng hệ sinh thái. Những chất ô nhiễm này gây hại cho sức khỏe con người, cây trồng và hệ sinh thái. Với nhu cầu năng lượng và lương thực toàn cầu ngày càng tăng, thiệt hại này dự kiến ​​sẽ còn tăng cao hơn nữa.

 

Tiềm năng của các công nghệ và chính sách giảm thiểu ô nhiễm nitơ -- cái gọi là "can thiệp nitơ" -- để cải thiện chất lượng không khí và giảm tác động đến hệ sinh thái, vẫn chưa được khai thác hết. Có một khoảng cách giữa nghiên cứu ngân sách nitơ truyền thống, theo dõi dòng nitơ qua không khí, nước và đất, nhưng thiếu chi tiết về các chuyển đổi sinh địa hóa, và nghiên cứu khoa học Trái đất, mô hình hóa các chuyển đổi này nhưng thường tập trung vào một môi trường môi trường duy nhất.

 

Để giải quyết khoảng cách kiến ​​thức này, một nhóm nghiên cứu quốc tế đã kết hợp các phương pháp đa ngành để đánh giá cách can thiệp nitơ có thể cải thiện chất lượng không khí và giảm lắng đọng nitơ. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Advances, phát hiện ra rằng các biện pháp can thiệp, chẳng hạn như cải thiện điều kiện đốt nhiên liệu, tăng hiệu quả sử dụng nitơ trong nông nghiệp và giảm thất thoát và lãng phí thực phẩm, có thể làm giảm đáng kể các ca tử vong sớm do ô nhiễm không khí, mất mùa và rủi ro hệ sinh thái. Mặc dù thường được xem xét cho các mục tiêu riêng lẻ như chất lượng không khí hoặc nước, việc nhận ra các lợi ích chung rộng lớn của việc quản lý nitơ là rất quan trọng đối với việc thiết kế chính sách trong tương lai và kiểm soát ô nhiễm hiệu quả.

 

Nghiên cứu cho thấy rằng đến năm 2050, các biện pháp can thiệp nitơ có tham vọng cao có thể cắt giảm lượng khí thải amoniac và nitơ oxit toàn cầu lần lượt là 40% và 52% so với mức năm 2015. Điều này sẽ làm giảm ô nhiễm không khí, ngăn ngừa 817.000 ca tử vong sớm, giảm nồng độ ôzôn ở mặt đất và cắt giảm tổn thất năng suất cây trồng. Nếu không có các biện pháp can thiệp này, thiệt hại về môi trường sẽ trở nên tồi tệ hơn vào năm 2050, trong đó Châu Phi và Châu Á bị ảnh hưởng nhiều nhất. Mặt khác, nếu các biện pháp đó được thực hiện, Châu Phi và Châu Á sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.

 

Kết quả của nghiên cứu nhấn mạnh rằng các biện pháp can thiệp vào nitơ có thể giúp đạt được nhiều Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), bao gồm Sức khỏe và Hạnh phúc Tốt (SDG3), Không còn Nạn đói (SDG2), Tiêu dùng và Sản xuất Có trách nhiệm (SDG12) và Cuộc sống trên Đất liền (SDG15).

 

MH - Mard, theo ScienceDaily

 

Trở lại      In      Số lần xem: 130

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD