Giá tất cả các mặt hàng đều tăng, ngoại trừ thịt, trong đó dầu thực vật tăng mạnh nhất 7,3%. Chỉ số giá thực phẩm thế giới tháng 10/2024 tăng 5,5% so với tháng 9/2024 nhưng vẫn giảm 20,5% so với mức đỉnh 160,2 điểm đạt được vào tháng 3/2022.
 
Chỉ số giá ngũ cốc thế giới tháng 10/2024 đạt trung bình 114,4 điểm, tăng 0,9 điểm (0,8%) so với tháng 9/2024 nhưng vẫn thấp hơn 10,3 điểm (8,3%) so với tháng 10/2023. Giá lúa mì toàn cầu tăng tháng thứ hai liên tiếp, chủ yếu do lo ngại về điều kiện thời tiết bất lợi ảnh hưởng đến việc gieo trồng vụ đông ở một số nước xuất khẩu lớn ở Bắc bán cầu, bao gồm Liên minh châu Âu, Liên bang Nga và Mỹ.
 
Ngoài ra, việc tái áp dụng giá sàn không chính thức ở Liên bang Nga và căng thẳng gia tăng ở khu vực Biển Đen đã gây áp lực tăng giá. Giá ngô thế giới tiếp tục xu hướng tăng trong tháng 10/2024, một phần do nhu cầu nội địa ở Brazil tăng mạnh và những khó khăn trong vận chuyển ở một số vùng trong nước do mực nước sông thấp. Điều kiện khô hạn cản trở việc trồng trọt ở Achentina và nhu cầu ổn định đối với ngô Ukraine cũng góp phần khiến giá ngô tăng. Trong số các loại ngũ cốc thô khác, giá lúa mạch thế giới tăng trong khi giá hạt bo bo giảm. Chỉ số giá gạo thế giới tháng 10/2024 giảm 5,6%, do giá gạo Indica giảm do cạnh tranh gia tăng giữa các nước xuất khẩu sau khi Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu đối với gạo không tấm.
 
Chỉ số giá dầu thực vật thế giới tháng 10/2024 đạt trung bình 152,7 điểm, tăng 10,4 điểm (7,3%) so với tháng 9/2024 và đánh dấu mức cao nhất trong hai năm, do giá dầu cọ, dầu đậu tương, dầu hướng dương và dầu hạt cải tăng cao. Giá dầu cọ thế giới tháng 10/2024 tăng tháng thứ năm liên tiếp, chủ yếu do lo ngại về sản lượng thấp hơn dự kiến đồng thời với khả năng sản lượng theo mùa sụt giảm ở các nước sản xuất chính ở Đông Nam Á. Tương tự, giá dầu hướng dương và hạt cải dầu toàn cầu tiếp tục tăng, chủ yếu do triển vọng nguồn cung giảm do sản lượng năm 2024/25 dự kiến giảm. Giá dầu đậu tương tăng do nhu cầu toàn cầu vững trong bối cảnh nguồn cung dầu thực vật thay thế hạn chế.
 
Chỉ số giá sữa thế giới tháng 10/2024 đứng ở mức 139,1 điểm, tăng 2,5 điểm (1,9%) so với tháng 9/2024 và cao hơn 24,5 điểm (21,4%) so với tháng 10/2023. Giá phô mai quốc tế ghi nhận mức tăng lớn nhất, phản ánh nguồn cung hạn chế để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu đối với nguồn cung giao ngay trong bối cảnh doanh số bán hàng nội địa tăng mạnh, đặc biệt là tại Liên minh châu Âu, nơi sản lượng sữa giảm theo mùa. Giá bơ thế giới tháng 10/2024 cũng tăng tháng thứ 13 liên tiếp, do nhu cầu trong nước cao, tồn kho hạn chế và sản lượng sữa thấp theo mùa ở Tây Âu. Ngược lại, giá sữa bột, đặc biệt là sữa bột gầy lại giảm do sản lượng sữa theo mùa tăng ở Châu Đại Dương và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu yếu.
 
Chỉ số giá thịt thế giới tháng 10/2024 đạt trung bình 120,4 điểm, giảm nhẹ (0,3%) so với giá trị sửa đổi trong tháng 9/2024 và cao hơn 8,4 điểm (7,5%) so với tháng 10/2023. Giá thịt lợn quốc tế giảm nhiều nhất, phản ánh hoạt động giết mổ gia tăng ở Tây Âu trong bối cảnh nhu cầu trong và ngoài nước yếu. Giá thịt gia cầm thế giới giảm nhẹ do áp lực nguồn cung xuất khẩu tăng từ các nước sản xuất lớn trên toàn cầu. Giá thịt cừu thế giới nhìn chung vẫn ổn định do nhu cầu toàn cầu tăng cao bù đắp cho nguồn cung mùa mới từ Châu Đại Dương tăng vọt. Ngược lại, giá thịt bò quốc tế tăng nhẹ, bởi sức mua quốc tế mạnh hơn.
 
 
Chỉ số giá đường thế giới tháng 10/2024 đạt trung bình 129,6 điểm, tăng 3,3 điểm (2,6%) so với tháng 9/2024 và đánh dấu mức tăng tháng thứ hai liên tiếp, nhưng vẫn giảm 29,6 điểm (18,6%) so với tháng 10/2023. Những lo ngại về triển vọng sản xuất niên vụ 2024/25 ở Brazil, do thời tiết khô hạn kéo dài, đã đẩy giá đường tăng trong tháng 10. Ngoài ra, giá dầu thô quốc tế tăng, kích thích việc sử dụng mía nhiều hơn để sản xuất ethanol ở Brazil, càng góp phần làm tăng giá. Tuy nhiên, sự suy yếu của đồng Real Brazil so với đồng đô la Mỹ và lượng mưa cải thiện ở các khu vực trồng trọt trọng điểm phía Nam Brazil vào cuối tháng 10/2024 đã hạn chế mức tăng chung của giá đường thế giới.

 

Thủy Chung - Vinanet/VITIC/FAO.