Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  35
 Số lượt truy cập :  35057543
Phương pháp mới xác định các dòng lai ngô ngọt phục vụ chế biến được cải thiện về năng suất và lợi nhuận
Thứ năm, 16-07-2015 | 17:24:51

Ngô lai được cải thiện khả năng chịu căng thẳng mật độ, được trồng với mật độ cao hơn so với tổ tiên trước đây của chúng, đã trở thành một tác nhân làm tăng năng suất của ngô trong những thập kỷ gần đây.

 

Sự khác biệt lớn trong khả năng chống chịu mật độ dày (CST) gần đây đã được báo cáo đối với các dòng lai ngô ngọt phổ biến mà người trồng và các nhà chế biến còn băn khoăn không biết liệu các dòng lai mới nổi có được cải thiện về CST hay không.

Martin Williams - nhà khoa học cây trồng và là nhà sinh thái của trường Đại học Illinois cùng với Cơ quan Nghiên cứu nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết câu hỏi này về cơ bản rất quan trọng trong việc nâng cao tính bền vững của sản xuất ngô ngọt tại Mỹ và duy trì ưu thế trong sản xuất ngô ngọt trên toàn cầu.

Để xác định dòng lai CST trong các cánh đồng ngô, các nhà nghiên cứu thường so sánh dòng lai được trồng với nhiều mật độ. Tuy nhiên, Williams giải thích các thử nghiệm đối với ngô ngọt được thu hoạch thủ công, hay khi được thu hoạch bằng máy móc, trong thời gian ngắn. Ngô ngọt sau đó được chế biến, trong đó bao gồm: bóc tai, cắt hạt tươi, cũng thường được làm thủ công.

Trong một nghiên cứu được công bố gần đây, Williams đã xác định một phương pháp hiệu quả hơn để so sánh và xác định các dòng lai ngô ngọt phục vụ chế biến về CST.

Dựa trên nghiên cứu trước đó, Williams đã xác định được một mật độ "cao" có thể được sử dụng để cho thấy mức độ CST giữa các giống lai khác nhau. "Chúng tôi đã có một cảm nhận tốt về mật độ tối ưu của các dòng lai có năng suất hàng đầu trước đó, chúng tôi đã vượt qua mức đó", ông nói.

Tại Midwest, ngô ngọt phục vụ chế biến đang được trồng với khoảng 23.000 cây/ha. Nghiên cứu trước đó của Williams cho thấy lợi nhuận của các giống lai có cải thiện CST đạt mức tối đa trong khoảng 27.000 cây/ha. Trong thử nghiệm về căng thẳng gần đây nhất của ông, tất cả các giống lai đã được trồng và so sánh ở mật độ 29.000 cây/ha.

Cách tiếp cận này cho phép nhóm nghiên cứu so sánh (trong thử nghiệm nhân rộng trên các môi trường khác nhau) CST trong số các giống lai ngô “siêu ngọt” phục vụ chế biến do các ngành sản xuất hạt giống cung cấp, trong đó bao gồm 26 giống lai từ 8 công ty.

Theo kết quả của nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã có thể để xếp hạng danh sách các giống ngô ngọt lai phục vụ chế biến về CST.

Một phần của nghiên cứu cũng đề cập đến việc liệu có một mối quan hệ nào giữa CST và phân bón nitơ hay không. Williams đã không quan sát sự tương tác giữa việc sử dụng dòng lai và phân bón nitơ.

Ngoài việc cho người trồng và các nhà chế biến biết dòng lai nào có thể được trồng với mật độ dày hơn so với thông thường, kết quả của nghiên cứu này cũng là thách thức đối với các công ty giống trong vấn đề cải thiện CST.
 
N.T.H. - Mard, theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 1515

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD